Thứ năm, ngày 16 tháng 01 năm 2025
Cập nhật lúc: 05/03/2019

Những người nặng lòng với nghề truyền thống ở buôn làng

Cũng như bao cư dân khác đang sinh sống ở Trường Sơn - Tây Nguyên, đồng bào Êđê, Mnông ở Đắk Lắk cũng có những “đặc sản” thể hiện bản sắc văn hóa riêng, một trong “đặc sản” đó là ngành nghề truyền thống như: rèn, dệt thổ cẩm, dệt chiếu, làm gốm, làm men rượu cần .v.v… Thế nhưng theo dần cùng năm tháng, nhiều truyền nhân nay đã “về với tổ tiên”, còn lớp trẻ lại không mấy “mặn mà” với các ngành nghề thủ công vừa tốn thời gian, công sức, vừa thu nhập chẳng được bao nhiêu, vì thế mà ngày càng bị mai một. Tuy nhiên, ở các buôn làng vẫn còn có những người luôn nặng lòng với cái nghề mà cha ông để lại…

Bà Amí Hiên  dân tộc Mnông ở buôn Đắk Tuôr (Cư Pui), là một trong số ít ỏi những người đến nay vẫn còn giữ được cái nghề làm men rượu cần cho biết: Quy trình làm nên ché rượu cần không khó, nhưng để có một ché rượu ngon phải hội đủ 3 yếu tố là ngọt (mih) hơi có vị đắng (bhí) và cay     (hăng) thì trước tiên phải có men rượu. Để làm nên men rượu truyền thống,  đối với người Êđê họ thường lấy nguyên liệu từ củ riềng đỏ hoặc gừng dại còn nguyên liệu chính; để làm men rượu của người Mnông lại chủ yếu lấy từ cây cam thảo mà người dân quen gọi là cây ngọt (kyâo mu mih), đây là một loại cây dây leo mọc ở trong rừng. Sau khi lấy dây cây cam thảo về đem rửa sạch, cắt ngắn để tươi hoặc cũng có thể phơi khô, đem giã nhuyễn, sau đó trộn đều với bột gạo được giã sẵn, để tạo vị cay người ta thường cho thêm một ít ớt và vị đắng là bao tử nhím, nếu không có bao tử nhím thì thay thế bằng quả cà đắng. Sau khi các loại nguyên liệu đã trộn đều với nhau được đem nấu và nắn thành từng bánh tròn, (nhìn giống như chiếc bánh bao của người Kinh), rồi ủ kín từ 2 đến 3 ngày, lúc mở ra những chiếc bánh men nở phồng lên là đạt chất lượng, trường hợp bánh men không nở thì khi làm rượu sẽ bị chua. Về tỷ lệ pha trộn cân đối giữa các nguyên liệu bao nhiêu thuộc về bí quyết riêng mà chỉ có những người trong gia đình, dòng họ mới được biết, đây là loại men cổ xưa giúp rượu cần ủ càng lâu càng ngon, hiện nay số người ở các xã còn biết làm men rượu cần chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Chị A Mí H Bơi đang dệt thổ cẩm

Ở cái tuổi 88 và là người đàn ông cao tuổi duy nhất hiện nay đang còn sống ở Buôn Ngô A ( Hòa Phong), ông Y Kriêng Bkrông ( thường gọi Ama Nan) dân tộc Mnông, là một người làm thành thạo rất nhiều nghề của phụ nữ như dệt chiếu, làm men rượu cần, làm gốm, chia sẻ: Người Êđê, Mnông theo chế độ mẫu hệ, “vợ đi bắt chồng”, nên hầu hết những công việc gia đình đều do người phụ nữ đảm đương và quản lý, nhưng ông lại quan niệm công việc trong gia đình là công việc chung, vợ chồng phải chia sẻ, gánh vác cùng nhau. Vì thế, khi về ở rể ông đã tự học từ cha mẹ vợ và làm rất thành thạo nghề dệt chiếu, làm men rượu cần, làm gốm, nghề rèn … Hiện nay tuổi đã cao, không có điều kiện vào rừng tìm nguyên liệu như trước đây, nên sau mỗi đợt làm men rượu ông đều giữ lại vài chiếc để cấy lại cho lần sau. Khi có việc hỷ sự hoặc ngày lễ, tết, những người trong buôn muốn có một ché rượu ngon đậm đà hương vị, đều tìm đến ông để mua men về làm hoặc mua những ché  rượu do ông làm bằng men truyền thống.

Trước kia, nghề rèn, nghề đan lát còn thịnh hành, hầu hết nam giới sau mỗi mùa rẫy thường vào rừng lấy lồ ô, tre, nứa về chẻ nan tự làm những vật dụng trong gia đình như đan gùi, bồ đựng lúa, nong, nia… hoặc đi tìm những mảnh bom về rèn xà gạc, wăng wít, dao, rựa... Ngày nay, các hoạt động ấy ngày càng thưa vắng, nhưng nó lại trở thành “ chiếc cần câu cơm” của những người còn nặng lòng với nghề.

Ông Ama H Loăt ở xã Dang Kang, người gắn bó với nghề đan gùi mấy chục năm qua nói: Nhiều đồng bào trong các buôn vẫn có nhu cầu sử dụng gùi đi rẫy, nhưng để đan được chiếc gùi ưng ý phải tốn rất nhiều công sức, nên họ chấp nhận bỏ tiền mua cho tiện. Vì thế, ông thường xuyên đan gùi đem đến các buôn xa để bán, song nơi ông đang ở không có nguyên, vật liệu, cho nên ông đã kết hợp với một số người ở các buôn khác, mua vật liệu về đan hoặc “ăn chia” theo tỷ lệ thỏa thuận giữa người có vật liệu và người có công đan. Trung bình mỗi tháng ông bán được khoảng chục chiếc gùi với giá từ 250.000 đồng đến 300.000 đồng/một chiếc, cũng giúp cho gia đình ông có thêm một khoản thu nhập ngoài trồng trọt.

Một trong những nghề truyền thống hiện còn được khá nhiều chị em phụ nữ ở các buôn tâm huyết đó là nghề dệt thổ cẩm. Chị Amí H Bơi năm nay 49 tuổi, dân tộc Êđê ở Buôn Cư Phiăng ( Hòa Phong) phấn khởi nói: Khi còn là một thanh niên 17, 18 tuổi, những lúc mẹ giao ở nhà trông coi em nhỏ, chị thường dắt sang những gia đình có các Amí đang dệt thổ cẩm, với màu sắc và những đường hoa văn dệt trên những đồ dùng, khiến chị đam mê lúc nào không biết, về nhà chị tìm xin những chiếc áo cũ tháo ra mày mò học hỏi, khi đã nắm vững kỹ thuật chị xin tiền mẹ mua sợi về dệt thử và được các Amí hướng dẫn thêm, chỉ trong một thời gian ngắn chị đã biết dệt khá nhuần nhuyễn nhiều sản phẩm, đến nay chị đã dệt được trên ba chục bộ iêng, áo, tấm đắp biếu tặng cho tất cả những người thân trong gia đình cũng như sui gia. Ngoài ra chị còn dệt bán cho những người có nhu cầu. Đặc biệt, trên những sản phẩm có tính chất kỷ niệm, ngoài việc dệt hoa văn, chị thường dệt thêm chữ, ngày, tháng sự kiện hoặc ngày khởi công dệt, để mọi người dễ nhớ.

 Qua tìm hiểu hiện nay trong buôn Cư Phiăng (Hòa Phong)  có hơn mười chị em vẫn thường xuyên gắn bó với nghề dệt thổ cẩm, trong đó số người biết dệt cũng đang trẻ hóa, điển hình có em H Linh Byă, năm nay 18 tuổi nhưng đã biết dệt thành thạo nhiều sản phẩm như: iêng, áo, tấm đắp với những hoa văn đẹp mắt…

Trước nguy cơ một số ngành nghề truyền thống bị mai một, thì ngoài việc những người còn nặng lòng với cái nghề cha ông để lại, cũng rất cần vai trò “bà đỡ” của các tổ chức đoàn thể, tạo điều kiện để hội viên duy trì và phát triển các ngành nghề theo quy luật cung, cầu của thị trường ./.

                                                                   Mai viết Tăng

In Gửi Email

CÁC CHUYÊN MỤC KHÁC

Thống kê hồ sơ
ipv6 ready
Chung nhan Tin Nhiem Mang